1. Cách họa qua các sao: a. Sát tinh: gây họa nặng nhất. Sát tinh làm cho mất mạng, chấm dứt luôn sự nghiệp, tài sản, gia đạo, ảnh hưởng sâu rộng đến rất nhiều lĩnh vực. Đối với công danh, sát tinh tiêu diệt quý cách, chấm dứt cơ nghiệp.
Đối với tài sản, sát tinh tiêu diệt phú cách. Sự hiện diện
của sát tinh ở những cung chỉ phú quý có nghĩa là đương số
vừa nghèo, vừa hèn tức là không có tài sản, không có chức
phận. Đối với gia đạo, sự hiện diện của sát tinh ở Phu Thê
báo hiệu cho sự sát phu, sát thê, sự gián đoạn vợ chồng dưới
hình thức ly hôn, ly thân hoặc vợ chồng phải sống xa cách nhau
lâu năm, chưa kể các trường hợp bị ruồng bỏ vì ngoại tình
hoặc đâm chém nhau vì xung đột hay khảo của. Đối với con cái,
sát tinh là dấu hiệu sự sát con, con cái không vẹn toàn, sinh
nhiều nuôi ít, hoặc bị tàn tật hoặc thuộc thành phần côn đồ,
du đãng, gây phiền nhiễu cho cha mẹ, phá tán tài sản, ăn hết di
sản lại còn mắc nợ, tạo nợ cho cha mẹ. Được xem là sát tinh
có 8 sao: Địa Kiếp, Địa Không, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh
Tinh, Thiên Không, Kiếp Sát. Càng hội tụ nhiều, càng bị hãm
địa nhiều, những tai biến và thiệt hại kể trên càng dễ xảy ra
sớm, mau, nặng nề. Sát tinh tụ hội ở cung nào thì cung đó bị
ảnh hưởng nhiều nhất.
b. Hình tinh: tạo ra hình ngục, ảnh hưởng đến tự do cá nhân,
kiện cáo di lụy đến uy tín cá nhân. Gặp hình tinh, trong trường
hợp là nạn nhân, đương số sẽ bị giam cầm, tra tấn, đói khát,
hành hạ thể xác và tinh thần, có thể bị đau ốm hay tật
nguyền trong thời gian bị bắt giữ, có thể bị đầy ải ở chỗ
rừng thiêng nước độc hoặc bị cầm cố ở xà lim chật hẹp, dơ
dáy. Mức độ nhẹ hơn, hình tinh là dấu hiệu của sự kiện tụng,
sự điều tra. Trong trường hợp này, uy tín, tài sản có thể bị
hao hụt, chưa kể những lo lắng cạnh tranh, thù hằn phải gánh
chịu. Hình tinh là các sao: Thiên Hình, Quan Phù, Thiên La, Địa
Võng, Thái Tuế, Quan Phủ, Liêm Trinh (chỉ hình ngục, quan tụng
một cách trực tiếp).
c. Bại, hao tinh: làm cho lụn bại, hao tán chẳng hạn như bị
bệnh nan y, bị giáng chức, mất của, hao tài, tang khó, thân nhân
đau ốm, tai nạn, vợ chồng nghi kỵ, anh em bất hòa, nhân tình
ruồng bỏ. Hao bại tinh gồm có: Tang Môn, Bạch Hổ, Đại Hao, Tiểu
Hao, Thiên Khốc, Thiên Hư. Sát tinh và hình tinh nhất định góp
phần tăng cường hiệu lực cho hao, bại tinh hoặc là nguyên nhân,
hoặc là hậu quả của hao bại tinh.
d. Ám tinh: là những sao gây trở ngại, trục trặc. ứng dụng cho
cá nhân, ám tinh có thể là vài tính nết đặc biệt kìm hãm sự
tiến thủ của con người về mặt công danh tài lộc. Trường hợp
đương số là nạn nhân, ám tinh tượng trưng cho tiểu nhân, đố kỵ,
phá hoại, ganh ghét làm cản trở bước tiến của mình. ứng dụng
cho công danh, ám tinh chỉ sự cạnh tranh trong quan trường, sự
trục trặc về thủ tục, hoàn cảnh bất lợi cho thăng tiến. Các
hình thái này cũng ứng dụng cho tài lộc. ứng dụng cho gia
đạo, ám tinh là sự cản trở hôn nhân, sự phá hoại hôn nhân hoặc
là sự xâm nhập của một người thứ ba vào đời sống vợ chồng,
sự bắt ghen, sự gièm pha, chim vợ/chồng người khác ... ám tinh
gồm các sao: Hóa Kỵ, Cự Môn, Phục Binh, Thiên Riêu, Thiên Không
Phá Quân, Thái Tuế, Tử Phù, Suy, Tử, Trực Phù, Tuần, Triệt, Cô
Thần, Quả Tú, Tuế Phá, Thiên Thương, Thiên Sứ.
e. Sao trợ họa: Hầu hết sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám
tinh đều hỗ trợ cho nhau để gây tác hại dây chuyền. Những sao
trực tiếp trợ họa bao gồm: Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Quyền, Quan
Đới làm xấu thêm, nặng hơn. Riêng sao Thiên Tài thì làm xấu ảnh
hưởng của Thái Dương và Thái Âm miếu, vượng địa.
2. Họa cho cá nhân
a. Họa của phái nam:
+ Họa đến tính mạng hoặc cơ thể:
Không, Kiếp, Binh, Hỏa, Linh: tai nạn binh lửa. Có khi không cần
phải hội đủ cả 5, chỉ cần 3 cũng đủ (tối thiểu phải có Địa
Không hoặc Địa Kiếp và Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh). Kiếp Không chỉ
các tai nạn bất khả kháng, dữ dằn, nặng nề, thủ phạm rất
lợi hại và hung bạo, hành động bất ngờ và nhanh chóng. Phục
Binh chỉ sự ám hại, phục kích, thường có tòng phạm giúp đỡ.
Hỏa hay Linh chỉ họa lửa như phỏng lửa, chết cháy, bị bom, bị
đạn, bị chất nổ ... Nếu có thêm sát tinh, hình tinh, hao bại
tinh khác thì càng dễ chết. Nếu gặp trợ họa như Tả Phù, Hữu
Bật, Hóa Quyền thì họa hại càng khó tránh. May ra gặp được
nhiều sao giải mạnh mẽ hội tụ trong bối cảnh Phúc, Mệnh, Thân
tốt mới khỏi, có thể chỉ bị thương.
Phi, Việt: hội với sát tinh, đặc biệt là Không Kiếp Hỏa, hai
sao này chỉ lằn tên mũi đạn, đặc biệt là sao Phi Liêm. Bộ sao
này thường ứng cho các tai nạn trên phi cơ hoặc họa về điện hay
bị sét đánh.
Lưu Hà hoặc Cự, Kỵ: đi với sát tinh, đặc biệt là Không Kiếp, Lưu Hà chỉ họa ở dưới nước.
Kình, Đà: ám chỉ thương phế nhưng đi với Không, Kiếp vẫn có
thể chết. Thương phế thường xảy ra cho tay chân. Đi với Hỏa, Linh
thì phỏng ở tay chân.
Hình, Kiếp Sát: chỉ tai nạn nói chung, cụ thể là thương tích
có thể đi đến mổ, cưa. Đi với sát tinh, đặc biệt là Không
Kiếp, có thể chết vì binh đao hay vì bị mổ xẻ.
Quan Đới: đi với sát tinh chỉ cái chết bất đắc, chết mau chóng.
Tử, Tuyệt: chỉ cái chết nếu đi chung với sát tinh.
La, Võng: gặp sao tốt thì thành hung, từ đó góp phần gây họa vào các hạn xấu.
Thương, Sứ: chỉ dùng để xem hạn. Đi với sát tinh, Thương Sứ tác họa, không hẳn là họa binh đao.
Tướng, Hình - Tướng, Tuần hay Triệt: tác họa rất thảm khốc,
cụ thể như chết trận, rớt máy bay, bị phục kích, thông thường
chết nát thây có khi không tìm ra xác. Bộ sao này đóng ở Phúc,
Mệnh, Thân, Tật hoặc Hạn đều nguy hại như nhau, không kém gì
Không Kiếp Binh Hỏa Linh kể trên.
Mã, Hình: báo hiệu điềm bất tường, tai họa thảm thương.
Tướng, Binh, Tử, Tuyệt: chỉ họa binh đao hay họa chiến tranh.
Mã, Tuần hay Triệt hay Kình, Đà: chỉ thương tích tay chân do binh đao hay tai nạn.
Kình, Đà, Tuần hay Triệt hoặc Không, Kiếp: như trên.
Kiếp, Hình, Quan Đới: chết bất đắc, do mổ xẻ hoặc binh đao.
Sát, Hình hay sát tinh: bị ám sát, bị ám hại, tử trận.
Hỏa hay Linh, Kiếp, Không: tai họa rất dễ xảy ra, nhất là khi nhập hạn gặp phải.
Sát, Liêm ở Sửu Mùi - Sát, Hỏa, Hao - Phá, Hỏa, Hao - Sát (hay Phá), Việt, Hình: báo hiệu tai nạn binh đao.
+ Họa ngục hình, quan tụng hại đến tự do và uy tín cá nhân:
Thiên Hình: trừ phi đắc địa, trừ phi đương số hành nghề cảnh
sát, thẩm phán, tình báo, trạng sư, Thiên Hình bao giờ cũng có
nghĩa hình tù. Số tốt lắm thì Hình ứng về sự điều tra của
cảnh sát, của tòa án, của giám sát viện hay của cơ quan an
ninh tình báo. Trong trường hợp hành nghề thẩm phán, luật sư,
cảnh sát, tình báo, tố tụng, Hình chỉ nghề nghiệp, chức vụ,
quyền hành bắt giam hay xét xử người khác hoặc kiện thưa kẻ
khác. Đi với cát tinh, hao bại tinh, ám tinh, hình tinh khác,
Hình càng có nghĩa kiện và tù và bao giờ đương số cũng là
nạn nhân. Có thêm sát tinh, tù tội nặng thêm, hình ngục khó
thoát, làm cho tán mạng hay tán tài vì hình ngục. Đi với hao
bại tinh, đương số khốn quẫn về tinh thần lẫn vật chất như lo
sợ hoang mang, chán nản, tuyệt vọng, trốn tránh, mai danh ẩn
tích mà lúc nào cũng sợ bị bắt, hoặc phải nuôi chí trả thù
mà khổ sở. Cũng có thể hao bại tinh có nghĩa là trong thời
gian thọ hình, đương số phải chịu nhiều cực hình như tra tấn,
bỏ đói, hành hạ, đầy ải, mắc bệnh nan y.
Liêm Trinh hãm địa: chỉ sự bắt bớ, giam cầm, ở tù. Dù hành
nghề gì mà Mệnh, Thân, Quan có Liêm hãm thì vẫn có thể bị
hình tù như thường. Do đó, Liêm Trinh hãm địa ác hiểm hơn Thiên
Hình nên đi với sát tinh rất dễ bị tù, bị kiện: Liêm, Kình,
Đà, Linh, Hỏa - Liêm Hổ - Liêm, Kiếp, Hình ở Mão, Dậu - Liêm,
Tham ở Tỵ và Hợi - Liêm, Kình - Liêm, Cự, Kỵ. Tuy nhiên, trường
hợp Liêm Tham ở Tỵ và Hợi có Hóa Kỵ hay Tuần, Triệt đồng cung
sẽ hóa giải hình tù của Liêm.
Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ: chỉ bị kiện, bị điều tra, bị
chỉ trích, bị vu cáo, bị nói xấu. Đi với sát tinh, khó tránh
tù hay thanh toán vì tư thù, thưa kiện rất lôi thôi. Quan tụng
liên hệ đến ba sao này thường là tội lường gạt, bội tín, quỵt
nợ, sang đoạt. Quan Phù, Quan Phủ chỉ sự phản bội, sự lợi
dụng lòng tin, sự xé lẻ, rã đám. Thái Tuế chỉ khẩu thiệt,
cãi vã, chửi bới, chỉ trích, bút chiến, công kích.
Thiên La, Địa Võng: chỉ sự bắt bớ, giam cầm hoặc tối thiểu
cũng gây trở ngại cho công việc, kìm hãm sự thăng tiến. Hình
tụng, kiện tụng chỉ có khi La Võng đi kèm với sát hay hình
tinh trong cục diện Mệnh, Thân xấu.
Hóa Kỵ: có nghĩa kiện tụng. Chất của Hóa Kỵ là ganh ghét,
ích kỷ, đố kỵ, nói cấu, vu khống để hãm hại người khác một
cách tiểu nhân, nhỏ mọn. Quan tụng của Hóa Kỵ tương tự như
Thái Tuế. Đi với Thái Tuế, Hóa Kỵ luôn nói xấu thiên hạ, ngồi
lê đôi mách, đưa đến đôi co, đối chất, kiện thưa vì ngôn ngữ
bất cẩn.
Đà La: chỉ sự ngoan cố, ngỗ ngược, bướng bỉnh, hẹp hòi, câu
chấp và có ý nghĩa kiện tụng. Đặc biệt đi với Kỵ, Tuế thì
quan tụng rất rõ. Có Đà La, thua kiện cũng không đầu hàng, còn
tìm cách chống án, chạy chọt, vận động cho được phần hơn.
Cự Môn hãm địa (ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ): có ý nghĩa
kiện cáo, nhất là đi chung với Hóa Kỵ, Thiên Hình hoặc sát
tinh, ý nghĩa giống như Hóa Kỵ.
Cách kiện tụng và ngục hình còn do một số bộ sao dưới đây
quảng diễn: Xương, Khúc ở Tỵ và Hợi - Xương, Khúc, Phá ở Dần -
Nhật, Nguyệt, Riêu, Đà, Kỵ - Binh, Kỵ, Hình - Binh, Phù, Hình.
+ Họa sắc dục:
Nếu cung Phúc có Tang Môn, Đào Hoa, Hồng Loan và Thai thì dòng
họ có người chết vì thượng mã phong. Nếu 4 sao đó đóng ở
Mệnh, Thân hoặc Tật thì họa đó xảy ra cho mình.
Họa bị đánh đập vì đam mê tửu sắc có ba bộ sao: Tham, Đà ở Tý - Tham, Đà ở Dần - Tham, Vũ đồng cung gặp Phá.
Đau khổ vì tình: Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư, Lưu Tang, Lưu Hổ, Lưu Khốc, Lưu Hư.
Ngăn trở ái tình: Phục Binh, Hóa Kỵ, Cự Môn, Thiên Không, Kình Dương, Đà La hãm địa, Tuần, Triệt.
Sao chỉ sự phản bội: Quan Phù, Quan Phủ, Thái Tuế.
Sao chỉ sự xui xẻo: Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình
Sao thay cũ đổi mới: Thiên Mã, Thiên Đồng, Đại Hao, Tiểu Hao, Thai.
b. Họa của phái nữ:
+ Họa trinh tiết:
Thai, Phục, Kiếp hay Không: chỉ sự hiếp dâm, có thể là hiếp tập thể.
Thai, Phục - Thai, Kiếp hay Không - Riêu, Phục - Riêu, Không, Kiếp -
Tham, Phục - Tham, Không, Kiếp - Đào, Phục - Đào, Không, Kiếp -
Đào Riêu, Không, Kiếp - Đào, Thai, Không, Kiếp: thất trinh thất
tiết.
Đào, Riêu: lăng loàn, đàn bà ngoại tình, có khi không phải với
một người. Hồng Loan, Riêu cũng có nghĩa tương tự.
Đào, Thai: tiền dâm hậu thú.
Đào, Thai, Riêu: gái giang hồ.
Cự, Kỵ hay Tham, Kỵ: ám chỉ sự mất trinh, sự bất hạnh trong tình ái.
Thai, Hình, Hỏa, Tang, Hổ, Kiếp: chỉ sự hiếp dâm đi liền với
án mạng, tượng trưng cho sự thanh toán vì tình, sự trả thù
của tình nhân ác độc.
3. Họa cho nghề nghiệp:
a. Cách chức, thôi việc:
Tuần, Triệt ở cung Quan: trắc trở cho quan trường bằng nhiều
hình thái: chậm công danh, công danh vất vả, thấp kém, không bền
vững, thăng giáng thất thường. Sao Triệt báo hiệu sự gãy đổ
ít nhất một lần trong sự nghiệp. Sao Tuần tác họa nhẹ hơn
nhưng lâu dài hơn. Gặp cả Tuần, Triệt đồng cung thì tai họa
nghề nghiệp vừa nặng, vừa nhiều. Tuy nhiên:
– Tuần, Triệt gặp Âm, Dương ở Sửu, Mùi thi không phá mà làm vượng quan.
– Tuần, Triệt gặp Sát, Phá, Liêm, Tham hãm tối hay bại tinh mờ ám cũng làm vượng quan.
– Tuần, Triệt gặp Tử, Phủ, Cự, Nhật, Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương
sáng sủa thì bất lợi cho chức vụ rất nhiều như chậm quan,
chóng tàn, gặp hung họa, thăng giáng thất thường. Nếu tám sao
trên mà hãm địa thì khá hơn, tức là gặp khó khăn, thất thường
trong việc thăng tiến nhưng tựu chung có chức vị khá lớn, nhất
là về sau.
– Tuần, Triệt gặp Sát, Phá, Liêm, Tham đắc địa cũng còn đỡ
khổ, không đáng lo ngại về sự thăng giáng hay gãy đổ sự
nghiệp. Nếu hãm địa thì lại đẹp: công danh bộc phát mạnh mẽ.
Cung Quan vô chính diệu cần có Tuần, Triệt trấn thủ tại đó
mới hay. Bằng không thì dễ sa sút. Nếu chính tinh xung chiếu mà
sáng sử thì còn khá, ngược lại nếu mờ tối thì bất lợi.
Thiên Tướng gặp Tuần, Triệt thì dù được đắc địa, quan chức
không những bị truất giáng mà còn dễ chết thảm khốc. Tướng
Quân gặp Tuần, Triệt cũng lâm vào họa hại như thế.
Không, Kiếp: chỉ sự thăng trầm, lên voi xuống chó. Hãm địa thì
càng nguy, chắc chắn phải ít ra một lần mất chức nhục nhã,
bị đổi đi xa vì kỷ luật, chưa kể những hung họa dẫy đầy, dễ
chết vì binh lửa, chiến nạn. Như vậy, sự gián đoạn chức vụ
có thể bắt nguồn từ hai nguyên nhân bị chết hoặc bị cách
chức. Còn những họa nhỏ khác như vất vả, đè nén, đố kỵ thì
khỏi kể. Tai họa công vụ của Không Kiếp cũng còn do tật xấu
của chính mình. Người có Không Kiếp có lá số xấu thường xử
xự bằng thủ đoạn, bá đạo, ám muội, phi pháp, kiểu như tham
lận, cướp của, hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, biển thủ đưa đến
việc mất chức.
Thiên Hình, Thiên Tướng, Tuần, Triệt: Hình hãm địa ở Quan có
nghĩa gián đoạn công vụ vì bị ngục tụng, những tai bay vạ gió
làm cho viên chức phải bị liên lụy trong quan trường, chẳng hạn
như bị khiển trách, bị điều tra, bị ngưng chức, bị truy tố,
bị sa thải. Nếu đi với sát tinh, dễ bị hình tù vì Thiên Hình
chỉ hình phạt, bằng kỷ luật hay bằng tòa án. Cho dù Hình gặp
Tuần hay Triệt, ngục tụng cũng khó tránh. Cũng đồng nghĩa đó
nếu Hình đi với Thiên Tướng ở cung Quan. Nếu có thêm Thiên Khôi,
sẽ có thể bị mất đầu. Những họa nói trên sẽ tránh được nếu
đương sự bị đau phải mổ hay bị chết nhưng dù sao, Tướng Hình
Khôi ở Quan bao giờ cũng đập nặng vào chức vụ: Thiên Hình ở
Quan là hình thương đến công vụ. ý nghĩa này vẫn tồn tại nếu
Hình đi chung với Liêm Trinh; với Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ;
với Hóa Kỵ; với Cự Môn hãm địa ...
Hóa Quyền, Thiên Hình hay Tuần, Triệt: Hóa Quyền tượng trưng cho
quan tước, gặp Hình hay Tuần, Triệt thì có gián đoạn công vụ,
thông thường là bị bãi nhiệm, bị đổi chỗ hoặc phải thôi
việc. Nếu có chức phận cũng không giữ được lâu bền, phải từ
bỏ vì một nguyên nhân nào đó. Những sao đồng nghĩa với Hóa
Quyền mà gặp một trong ba sao này cũng rơi vào tai họa tương
tự. Đó là các bộ sao: Quốc ấn, Thiên Hình hay Tuần, Triệt;
Phong Cáo, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Thái Dương hãm, Thiên Hình
hay Tuần, Triệt. Thông thường, ý nghĩa mất việc chỉ rõ ràng
nếu bộ sao này đóng đồng cung ở Quan, nếu chỉ hội chiếu thì
việc mất chức không rõ ràng lắm, có thể là tự ý thôi việc.
Một số quý tinh khác như Thai Phu, Đường Phù gặp Tuần, Triệt
hay Hình không đến nỗi nặng lắm, có thể có nghĩa như hụt thăng
trật, hụt huy chương ...
Tuế, Đà, Kỵ: hội ở cung Quan chỉ mọi sự xui xẻo liên tiếp do
sự tố cáo, chỉ trích, vu khống, xuyên tạc, đố kỵ, cạnh tranh
làm cản trở bước tiến quan lộc, từ đó có thể đưa đến sự thôi
việc, sự thay đổi công việc. Vì có Đà La, bộ sao này cho thấy
có sự tranh cãi, gây lộn, ăn thua, khiếu nại, có khi ẩu đả
giữa đồng nghiệp, xô xát với cấp chỉ huy để rồi cuối cùng
gián đoạn công vụ.
b. Đè nén, đố kỵ
Phục Binh: điển hình cho sự hãm hại bằng thủ đoạn ngầm, sự
đố kỵ, ghen ghét giữa đồng nghiệp hay giữa mình với cấp chỉ
huy. Phục Binh còn có nghĩa âm mưu, kết bè, kết phái để đào
thải, loại trừ đối thủ, có khi tổ chức phục kích, ám sát,
thanh toán hoặc gài đương sự vào chỗ chết, chỗ kẹt, chỗ bị
án, bị tù, bị quy trách. Thông thường, Phục Binh hay sử dụng
mánh lới, thủ đoạn bất chính và bí mật để phá hoại đồng
nghiệp, có khi liên kết với tòng phạm, bè cánh, tổ chức. Nếu
có Tả Phù, Hữu Bật đi kèm thì nạn nhân phải chạm trán với
cả một hệ thống chằng chịt bao gồm nhiều tay sai ở nhiều ngõ
ngách, muốn khiếu nại cũng không được như ý, nhiều khi chẳng đi
đến đâu.
Hóa Kỵ: chỉ đó kỵ, ganh ghét, cạnh tranh bằng thủ đoạn gièm
pha, thêm bớt, thọc gậy. Hóa Kỵ là người bị nghi ngờ, bị theo
dõi, bị để ý. Đi chung với Phục Binh, sự đố kỵ có tính cách
ám hại, tầm thù, chẳng những bằng lời nói mà còn bằng hành
động. Đi với Thiên Hình, Hóa Kỵ dễ sinh quan tụng, thưa gửi,
khiếu nại, điều trần, cảnh cáo, khiển trách, ẩu đả lẫn nhau.
Chỉ trừ khi đi với Thanh Long mới đẹp.
Thiên Không: chỉ phần tử lưu manh trong công/tư sở, chuyên môn phá
hết kẻ này đến người khác, thọc gậy bánh xe, cản trở bước
tiến của đồng nghiệp với ác tâm, có tà ý, âm mưu phá hoại.
Bị Thiên Không, viên chức khó lòng ngóc đầu lên nổi, bị khép
trong kỷ luật, khống chế, mình làm mà thiên hạ hưởng, bị cấp
trên hay cấp ngang cướp công.
Đà La, Kình Dương: chỉ sự ngăn trở quan trọng vì ganh đua, cạnh
tranh gay gắt. Tại vị trí hãm địa, đương số là nạn nhân của
chia rẽ, phân hóa trong nghề nghiệp, làm việc nặng nhọc, gánh
trách nhiệm mà bị tội vạ, hiểu lầm, khiển phạt. Những bạc
bẽo của nghề thường do hai sao này quảng diễn.
Cự Môn hãm địa: đồng nghĩa với Hóa Kỵ nhưng nặng nề hơn. Con
người Cự Môn cũng như Hóa Kỵ lúc nào cũng bất mãn, mưu tìm
sự canh cải theo ý mình, không bảo thủ mà đấu tranh thay đổi
thành phần bảo thủ. Nếu đắc địa thì việc đấu tranh có cơ hội
thành công, trái lại, Cự Kỵ sẽ là nạn nhân của thái độ cấp
tiến của mình, gánh lấy hậu quả của sự kìm chế, đè nén, cô
lập. Đi chung với các sao ám khác như Thiên Không, Kình Dương, Đà
La, Phục Binh, là những người hay kết bè kết đảng để đấu
tranh. Nếu có sát tinh đi kèm thường có đổ máu, hình ngục,
thanh toán, trả thù qua lại.
Tuế, Đà, Kỵ: tượng trưng cho những xui xẻo liên tiếp trong quan
trường, trong nghề nghiệp, trong đó có sự đè nén, thị phi,
gièm pha, đố kỵ.
Đại Hao, Tiểu Hao: đi chung với quyền, quý, dũng tinh, Nhị Hao
thường chỉ sự sa sút hậu thuẫn, sự sút kém tín nhiệm, sự
mất mát thế lực. Viên chức có Song Hao ở Quan, ngoài ý nghĩa
hư danh, hư quyền, bị tổn thương uy tín, thất sủng, từ đó làm
việc gì cũng không lâu bền, ở với ai cũng khó hòa hợp, có
thể ngồi xơi chơi nước hay được giao những công việc chạy vặt,
liên lạc, kém quan trọng. Về mặt tâm lý, Đại Tiểu Hao ở Quan
còn chỉ những người đứng núi này trông núi nọ, bất mãn không
khí đang sống, lúc nào cũng chực hờ, tìm chỗ tốt, chỗ bở,
hay thay đổi chức vụ mà chũng chẳng hiển vinh gì bao nhiêu.
Tính tình của Nhị Hao thường bất nhất, không bền chí, không
kiên tâm tiến thủ trên cái gì đã có mà chỉ lo đổi chỗ để tìm
lợi lộc, tìm thăng tiến. Nếu được đắc địa thì Nhị Hao có
lợi hơn về mặt tài lộc, kinh nghiệm.
Thiên Khốc, Thiên Hư hay Tang Môn, Bạch Hổ: Trừ phi đắc địa ở Tý
Ngọ, Khốc Hư ở Quan biểu tượng cho những ưu tư, lo buồn, hoang
mang, sợ sệt khi hành nhiệm. Ngoài ra, còn có đặc tính bị
khinh ghét, chê bai vì bất lực, bất hòa. Người có Khốc Hư ở
Quan không thoải mái trong công việc, phải quan tâm lo lắng nhiều
mối, vì nhiều lý do, có khi phải gánh chịu nhục nhã, xấu hổ
bởi tai tiếng, bởi thị phi. Nếu đắc địa, các sao này chỉ uy
tín và hoạt động chính trị cũng như năng tài hùng biện, giáo
khoa, tâm lý chiến.
c. Bất dụng, sai dụng, thiểu dụng:
Lực Sỹ, Kình Dương: tượng trưng cho sự bỏ quên, việc ngồi chơi
xơi nước, việc nghỉ giả hạn. Lực Sỹ chỉ tài năng, sự tháo
vát, linh hoạt, lanh lợi đồng thời cũng ám chỉ thành tích,
công lao, chiến tích. Kình Dương chỉ sự ngăn cản, trở lực, trục
trặc trong công danh. Cả hai hội ý chỉ sự thi thố không hết
mức tài năng, sự đãi ngộ bất xứng với thành tích, sự thiểu
dụng, từ đó nảy sinh sự bất mãn, bất đắc chí. Kình Lực không
nhất thiết ngụ ý người có tài mà lắm khi ngụ ý người tự
cho rằng mình có tài, vì bị bạc đãi nên bất mãn. Kình Lực
đôi khi chỉ tham vọng, sự cậy tài, sự ỷ lại quá đáng làm cho
quần chúng ghét bỏ, xa lánh.
Thiên Mã, Tràng Sinh ở Hợi: Thiên Mã thông thường chỉ tài năng.
Gặp thêm Tràng Sinh là có cơ may tiến đạt. Nhưng hiềm vì ở cung
Hợi cho nên năng tài này bị chìm trong bóng tối. Đây là hạn
người kém may, không có cơ hội thi thố được, hoặc chỉ có danh
mà không có quyền, chỉ có hư vị hơn là thế lực, hoặc bị đặt
vào chỗ tượng trưng để lợi dụng uy tín chứ không phải để hành
sử quyền binh. Công lao của Mã Sinh ở Hợi thường chỉ ở trong
bóng mờ, hay bị người khác lấn át. Nếu gặp Phục Binh, ngụ ý
người có tài mà bị ruồng bỏ, bị gièm xiểm, bị đào thải ...
Thiên Mã, Tuần, Triệt: không chỉ tai nạn xe cộ mà chỉ sự bất
dụng, sự thiếu may mắn trong nghề nghiệp, làm cái gì cũng
thất bại, tai ương, xui xẻo khiến cho thượng cấp mất dần tín
nhiệm, không dám giao phó đại sự. Cho nên, công danh của Mã,
Tuần, Triệt tương đối nhỏ.
Lộc Tồn, Tuần, Triệt: Lộc Tồn cũng chỉ tài năng như Thiên Mã,
đặc biệt là tài tổ chức, quyền biến, khai sơn phá thạch, có
nhiều sáng kiến giải quyết mọi việc. Gặp Tuần Triệt, tài
năng, cơ may bị tiêu tán. Đó là trường hợp những người bị
thiểu dụng, bị uổng dụng, bị sai dụng.
Thiên Tài: đi chung với Nhật, Nguyệt sáng sủa sẽ làm mất đi sự
tốt đẹp, làm giảm ánh sáng của Nhật, Nguyệt. Đó là trường
hợp tài năng thiếu cơ hội.
Tại cung Quan vắng bóng những sao trợ quyền, những sao may mắn
thì tài năng thường cô độc, thiếu người công lực, nâng đỡ,
thiếu may mắn của thời cuộc. Đó là những sao Ân Quang, Thiên
Quý, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thanh Long-Lưu Hà,
Thanh Long-Hóa Kỵ, Thiên Mã-Tràng Sinh (trừ ở Hợi), Bạch Hổ-Phi
Liêm, Tràng Sinh-Đế Vượng, Thiên Hỷ-Hỷ Thần, Tứ Linh, Tam Hóa
...