Có nhiều chỉ dấu để phỏng đoán cái nghèo nói chung :– chính tinh ở những cung tài sản bị hãm địa. Nếu đó là tài tinh thì mức độ nghèo không mấy nặng vì dù sao, tài tinh hãm địa thì cũng còn ít nhiều ý nghĩa tài lộc, nhất là hợp vị ở Tài, Điền. Có thể có hai trường hợp hãm địa gần như tương đương nhau: hoặc chính tinh miếu, vượng và đắc địa bị Tuần hay Triệt án ngữ, hoặc chính tinh hãm địa thiếu Tuần, Triệt án ngữ. Lẽ dĩ nhiên, chính tinh hãm địa thiếu Tuần, Triệt đồng cung thì xấu hơn là miếu, vượng hay đắc địa gặp Tuần Triệt vì Tuần hay Triệt chỉ có hiệu lực cản trở cái tốt của chính tinh một thời gian nào đó, đến một mức độ nào đó mà thôi.
– những cung tài sản thiếu phụ tinh tốt hội chiếu, nhất là
thiếu tài tinh. Những cung này có tài tinh hãm địa thì vẫn
còn đỡ khổ hơn là thiếu cả tài tinh lẫn cát tinh khác.
–
những cung tài sản thiếu sao giữ của. Nếu bị thêm sao hao
(Đại, Tiểu Hao hãm địa) thì càng kém, nhất là khi hao tinh nằm
ở Tài và Điền mà không gặp sao nào chế ngự.
– những cung tài sản thiếu sao trợ tài, sao may mắn, sao hưởng của.
–
những cung tài sản bị sát tinh, hung tinh, bại tinh, hao tinh,
hình tinh cùng hãm địa. Đây là trường hợp xấu nhất, đặc biệt
là khi gặp sát tinh nặng lại không hợp cách của Mệnh và cũng
không bị sao nào khác chế ngự.
Có đủ 5 trường hợp trên
thì mức nghèo sát ván: đó là hoàn cảnh của những người cùng
khổ, không có gì để giữ, không có gì để mất. Họ dễ trở
thành đạo tặc, trộm cướp.
1. Cách nghèo về điền trạch: do cung Điền mô tả qua những sao dưới đây:
- Phá Quân ở Dần, Thân
- Thất Sát ở Thìn, Tuất
- Thiên Đồng, Cự Môn đồng cung
- Cự Môn ở Tỵ, Thìn, Tuất
- Vũ Khúc, Thất Sát đồng cung
- Thái Dương hãm địa
- Thái Âm hãm địa
Bảy bộ sao trên đều có nghĩa là không có tài sản.
- Tử Vi, Thất Sát đồng cung
- Tử Vi, Phá Quân đồng cung
- Tử Vi, Tham Lang đồng cung
- Liêm Trinh ở Dần, Thân
- Vũ Khúc, Phá Quân đồng cung
- Cự Môn, Thái Dương ở Thân
- Tham Lang ở Dần, Thân, Tý, Ngọ
- Cự Môn ở Hợi, Tý, Ngọ
- Thất Sát ở Tý, Ngọ
- Phá Quân ở Thìn, Tuất
- Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung
Đó
là những trường hợp có ít nhiều di sản, nhưng không giữ được,
không hưởng được, bị phá sản, phải lìa bỏ tổ nghiệp, chỉ có
thể tự lập mới có chút ít điền sản nhưng phải hết sức chật
vật và chậm lụt, nhiều khi phải tha phương lập nghiệp.
- Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung
- Liêm Trinh, Thất Sát đồng cung
- Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung
- Thái Dương, Thiên Lương ở Dậu
Những
cách trên tương đối khá hơn, cụ thể như có di sản nhưng bị sa
sút về sau (Liêm, Phủ), chậm của (Liêm, Sát), lập nghiệp thất
bại buổi đầu (Liêm, Phá), về già mới có nhà đất (Dương,
Lương).
- Địa Không, Địa Kiếp hãm địa: đóng hay chiếu cung
Điền, Kiếp Không có nghĩa: không có của cải, nhà đất; bị
chiếm hữu nhà đất; bị phá hủy nhà đất; bị tai họa lớn vì
điền sản. Kiếp Không hãm địa báo hiệu một đại họa bất khả
kháng, có hậu quả lớn lao và lâu dài cho sở hữu chủ. Họa đến
một cách hung hãn và bất ngờ, không lường trước được, không
thể tránh khỏi. Hai sao này là một nghiệp chướng thật sự về
mặt điền sản.
- Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh
hãm: nếu hãm địa và hội tụ ở Điền, bốn sao này hung hiểm
không kém: chỉ sự phá sản, tai họa về điền sản (họa về lửa
nếu gặp Hỏa Linh), sự cực nhọc lúc mua sắm, lúc gìn giữ, số
lượng tài sản ít oi, phẩm chất nhà đất tầm thường, việc mất
nhiều mối lợi về điền sản.
- Tuần, Triệt ở Điền: chẳng
những phải tự lực mua sắm mà nhà đất còn khó tạo hay chậm
có hoặc có rồi bị phá, hao, sa sút. Nếu cả hai đồng cung,
triển vọng vô sản hoặc phá sản càng rõ rệt. Ai có di sản mà
cung Điền có Triệt thì dễ bị hao tán sớm và mạnh, nếu có
Tuần thì di sản ít mới khỏi hao, còn nhiều thì hao dần. Ai tự
lập mà cung điền có Triệt thì chậm của, có thể từ 45 tuổi
trở đi. Gặp Triệt, thời gian thủ đắc chậm thêm một thập niên
nữa. Nếu gặp Tuần, điền sản tự lập hoặc ít, nếu có nhiều
thì hao tán tuần tự, mặc dù của cải có thể được thủ đắc
sớm, vào tuổi lập thân.
Có hai biệt lệ đối với cung Điền vô chính diệu:
–
Điền vô chính diệu gặp Tuần hay Triệt đồng cung: việc mua sắm
chỉ khó lúc đầu của buổi lập thân, có sự mua vào bán ra điền
sản và thay đổi nhà cửa luôn. Càng về già thì mới có sản
nghiệp, nhưng tầm thường.
– Điền vô chính diệu có Tuần
hay Triệt án ngữ và có Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: sự
nghiệp tuy có khó khăn lúc đầu nhưng về sau rất phong túc, trở
thành đại phú nông, đại trạch chủ, đại tư bản.
2.
Cách nghèo về tiền bạc: biểu lộ ở cung Tài và ba cung hội
chiếu Tài, cùng với cung nhị hợp với Tài nhưng cung Tài có ý
nghĩa trực tiếp.
- Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung
- Phá Quân ở Dần, Thân
- Thất Sát ở Thìn, Tuất
- Tham Lang ở Dần, Thân, Tý, Ngọ
Bốn trường hợp này là tệ nhất: nghèo túng, nợ nần, hoang phí, bị hình ngục vì tiền (Liêm, Tham).
- Tử Vi, Thất Sát: kiếm tiền mau lẹ
- Tử Vi, Phá Quân: chật vật buổi đầu, càng về sau càng sung túc
- Tử Vi, Tham Lang: tiền bạc bình thường, có của hương hỏa nhưng về sau bị sa sút
- Liêm Trinh ở Dần, Thân: việc kiếm tiền phải cạnh tranh và chậm nhưng làm giàu chắc chắn
- Liêm Trinh, Thiên Phủ: giàu có lớn, giữ của
- Liêm Trinh, Thất Sát: tiền bạc thất thường, hết lại có
- Liêm Trinh, Phá Quân: dễ kiếm tiền lúc tao loạn, nhưng hay bị họa vì tiền
- Thiên Đồng, Cự Môn: tiền bạc vào ra thất thường
- Vũ Khúc, Phá Quân: tiền bạc có vào nhưng lại ra hết
- Vũ Khúc, Thất Sát: tự lập, vất vả lúc đầu
- Thái Dương hãm, Thái Âm hãm: phải cực nhọc mới tạo ra tiền, chậm có tiền
- Cự Môn ở Hợi, Tý, Ngọ: tự lập, phát tài mau lẹ lúc tao loạn
- Cự Môn ở Tỵ, Thìn, Tuất: tiền bạc thất thường, hay bị kiện tụng, thị phi vì tiền
- Phá Quân ở Thìn, Tuất: tiền bạc thất thường, hết lại có
3. Những sao hao tiền bạc:
Đại,
Tiểu Hao hãm địa: rất hoang phí, ham vui, tiêu pha không tiếc
tiền, dù không tiền cũng không biết lo kiếm tiền, do đó thường
túng thiếu, nợ nần. Tâm lý của nhị Hao rất phù du, lãng tử,
chỉ biết có hiện tại, không có chí làm giàu, không có khả
năng kiếm tiền, chỉ có tài ném tiền qua cửa sổ cho thỏa
thích, cho dù không muốn tiêu cũng thường gặp dịp phải chi. Cung
Tài đại kỵ hai sao này, dù có được tài tinh đồng cung thì
mức chi vẫn nhiều hơn mức thu.
Văn Xương, Văn Khúc: đôi khi
có nghĩa mê cờ bạc, một trong những nguyên nhân hao tán tài
lộc. Đôi khi, người có Xương Khúc ở Tài sống bằng nghề cờ
bạc.
Điếu Khách: cờ bạc đều đều, có thể là người sống về nghề đổ bác hoặc chủ sòng bạc.
Đại,
Tiểu Hao, Hỏa hay Linh Tinh: Hỏa hay Linh là bệnh nghiện. Nếu
Hỏa, Linh không đi với nhị Hao, có lẽ bệnh nghiện không nặng và
không tốn hao lắm.
Đại, Tiểu Hao, Đào, Hồng: đây là bệnh
nghiện gái/kép, hảo ngọt mà dại gái/trai, bị tốn tiền vì
tình nhân bòn của. Đào, Hồng, Song Hao không cần đóng ở Tài,
có thể đóng ở Mệnh, Quan, Phúc cũng vẫn có ý nghĩa nói trên.
Duy Đào Hồng đi với Hóa Lộc hay Lộc Tồn thì nhờ phái đẹp
hoặc nhờ sắc đẹp mà trở nên giàu có.
Phục Binh: đóng
hay chiếu cung Tài, Phục Binh dễ bị mất trộm, thường bị ăn
chặn, ăn gian, lường gạt, hoặc mất bất cứ của cải gì. Trong
lá số gian phi, Phục Binh là chính mình đi trộm, đi giựt, chính
mình là thủ phạm hay tòng phạm. Đóng ở cung Nô thì tôi tớ
trong nhà lấy đồ đạc của chủ, bạn bè quỵt tiền mình.
Thiên
Hình: ở một cung Tài đẹp không có lợi vì chỉ tụng ngục,
hình tù vì nguyên do tiền bạc, cũng có thể bị bắt rồi phải
hao tiền chạy chữa. Nếu cung Tài xấu, Thiên Hình có thể chỉ
sự trộm cắp, lường gạt, cướp giật mà bị tù tội. Nếu có Song
Hao hãm địa thì có tái phạm ít ra hai lần. Thiên Hình đồng
cung với Thiên Tướng (cho dù có đắc địa đi nữa) ở Tài cũng
xác nhận tai họa vì tiền khó tránh. Nếu Hình đi chung với
Không Kiếp thì bị cướp đánh đập khảo của, bắt giữ để tống
tiền. Nếu cung Tài xấu, thì chính đương sự là kẻ phạm pháp.
Nếu đồng cung với Liêm Tham ở Tỵ Hợi, tù tội khó tránh và
phải vướng mắc nhiều lần.
Thiên Hình, Lực Sỹ: ở cung
Tài xấu, Hình Lực có nghĩa bần cùng sinh đạo tặc. Lực Sỹ
chỉ sức mạnh cho nên thường phạm pháp bằng bạo lực và bằng
dụng cụ nhà nghề như cạy cửa, đào tường, khoét vách để lấy
trộm. Vì có Hình, ắt có lần bị bắt quả tang, phải vướng lao
tù. Cũng vì có Lực, phạm nhân có thói quen thoát ngục bằng
bạo lực. ở cung Tài xấu, hai sao này xác nhận thêm sự nghèo
khó.
Hóa Kỵ: chỉ: hao tài, tán của nhưng không mạnh bằng
Song Hao; bị dị nghị, đàm tiếu, tai tiếng trong việc kiếm
tiền; bị cạnh tranh, đố kỵ, ghen ghét vì tiền bạc. Ngoài ra,
nếu Mệnh xấu có Kỵ mà giáp Kình Đà thì cũng nghèo, lang
thang tìm miếng ăn rất khổ cực.
Quan Phù, Quan Phủ, Thái
Tuế: trừ phi đương số hành nghề luật sư, thẩm phán, bằng
không, ba sao này chỉ sự kiện tụng vì tiền bạc, sự hao tài vì
thưa kiện, sự tranh chấp tài sản giữa anh em hay với người
ngoài, kéo nhau đến tòa án. Mặt khác, Quan Phù và Quan Phủ
trong cung cách gian phi còn chỉ sự phản bội, sự lường gạt cụ
thể như mượn tiền không trả, giật hụi, chia "chiến lợi phẩm"
không sòng phẳng thường đi đến cãi vã, kiện thưa, thanh toán,
trả thù. Ba sao này nếu đi chung với Đà La, Hóa Kỵ: càng nhấn
mạnh cường độ của sự tranh tụng.
Liêm, Tham đồng cung: báo hiệu sự kiện thua vì tiền, có thể đi đến ngục tù.
Địa
Không, Địa Kiếp hãm địa: nghèo túng, nợ nần cực khổ, thậm
chí có thể ăn mày, nếu có chút của cũng tán tài, sự mất
của xảy ra bất ngờ, mau chóng, liên quan đến số tiền lớn và
thường đi liền với bạo hành như đánh đập, cướp giật, phá nhà,
hoặc dùng thủ đoạn phi pháp như lường gạt, sang đoạt, thậm
chí có khi giết người. Tóm lại, Kiếp Không có hai nghĩa chính:
hoặc là vô sản, hoặc là bị họa vì tiền bạc. Đi chung với
Tướng Quân, Phục Binh hay Tả, Hữu thì có thêm tòng phạm. Kiếp
Không hãm địa ở cung Tài của một lá số gian hùng có nghĩa là
chính mình đi cướp của, dùng thủ đoạn ám muội và táo bạo
để tạo ra tiền. Cách này thường đi liền với cách ăn mày trong
bối cảnh các cung Phúc, Mệnh, Thân cùng xấu.
Kình, Đà,
Hỏa, Linh hãm địa: càng hội nhiều vào cung Tài thì càng nghèo
khó. Các sao này thường chỉ con người rất bủn xỉn, đê tiện,
chỉ biết có đồng tiền và hành động tráo trở để xoay tiền.
Nếu Mệnh xấu mà giáp Kình, Đà thì cũng rất nghèo, có khi
phải ăn xin.
Tuần, Triệt ở cung Tài: như Tuần Triệt ở cung Điền.
Thiên
Không: phá tán, không cầm của được nhiều, không giữ của được
lâu dài. Những nguyên nhân hao tán thường là bất khả kháng hoặc
là hậu quả của một thủ đoạn thủ đắc tiền bạc về trước.
Thiên
Giải: ở Tài Điền thì không cầm giữ của cải được nếu ở cung
Tài xấu. Nếu đi với tài tinh thì sẽ có nhiều dịp may kiếm
lợi.
CÁCH THỌ, CÁCH YỂU - NHỮNG SAO YỂU, THỌ
1. Cách yểu của trẻ con:
a.
Giờ kim sà: Phạm giờ kim sà, triển vọng của đứa trẻ rất bấp
bênh. Cho dù có sống cũng hết sức khó nuôi vì đau yếu luôn
luôn. Nếu Bản Mệnh đứa trẻ bị cha (hay mẹ) khắc hành, thì
càng khó sống.
Cách tính giờ kim sà rất phức tap:
- dùng cung Tuất, kể là năm Tý, đếm theo chiều thuận đến năm sinh;
- đến cung nào, kể cung đó là tháng giêng, đếm theo chiều nghịch đến tháng sinh;
- đến cung nào, kể cung đó là mùng một, đếm theo chiều thuận đến ngày sinh;
- đến cung nào, kể cung đó là giờ Tý, đếm theo chiều nghịch đến giờ sinh thì dừng lại ở cung này.
Nếu là trai, mà cung này là cung Thìn hoặc cung Tuất thì phạm giờ kim sà.
Còn nếu cung này là cung Sửu hay Mùi thì phạm vào bàng giờ.
Nếu
là gái, mà cung này là cung Sửu hoặc Mùi thì phạm giờ kim
sà, còn nếu rơi vào cung Thìn hay Tuất thì chỉ phạm bàng giờ.
Trong các trường hợp phạm giờ kim sà, trai hay gái, dễ
yểu trước 13 tuổi. Còn nếu chỉ phạm bàng giờ thì có cơ may
tồn tại, nhưng sẽ hết sức khó nuôi. Tuy nhiên, nếu Bản Mệnh
đứa trẻ bị Bản Mệnh người mẹ hoặc người cha khắc thì ít hy
vọng, đứa nhỏ sẽ có thể yểu, sau nhiều lần đau yếu. Tuy nhiên,
trong trường hợp có hy vọng tồn tại, còn phải xem thêm các
sát tinh thủ Mệnh đứa trẻ để quyết đoán cho chắc chắn.
b. Giờ quan sát:
Phạm
giờ quan sát, trẻ con hoặc hay đau yếu, hoặc bị tai nạn bất
ngờ đe dọa sinh mệnh. Cách tính chỉ dựa theo giờ, tháng sinh
theo bảng dưới đây:
tháng sinh + giờ quan sát
1 Tỵ + 7 Hợi
2 Ngọ + 8 Tý
3 Mùi + 9 Sửu
4 Thân + 10 Dần
5 Dậu + 11 Mão
6 Tuất + 12 Thìn
Cần
lưu ý rằng tai nạn sơ sinh có ảnh hưởng sâu rộng đến tính nết
đứa trẻ. Thông thường, tai nạn đó khiến đứa trẻ sau này rất
ngỗ ngược, liều lĩnh, ngang tàng.
c. Giờ tướng quân:
Phạm giờ này, trẻ hay bị bệnh, đặc biệt là ghẻ lở và thần
kinh không quân bình, thẻ hiện bằng tính khóc hoài không nín,
khóc rất dai. Tuy nhiên, tính mạng đỡ lo, có hy vọng tồn tại
nhiều hơn hai giờ kim sà và quan sát. Cách tính giờ tướng quân
theo mùa và giờ sinh theo bảng dưới đây:
Giờ tướng quân theo mùa sinh:
Xuân
1-1 đến 30-3 Thìn - Tuất - Dậu
Hạ
1-4 đến 30-6 Tý - Mão - Mùi
Thu
1-7 đến 30-9 Dần - Ngọ - Sửu
Đông
1-10 đến 30-12 Thân - Tỵ - Hợi
d. Giờ Diêm vương:
Phạm
giờ này, trẻ con thường có nhiều chứng dị kỳ, như hay giật
mình, hốt hoảng, trợn mắt, lè lưỡi, hầu như bị một ám ảnh
nào lớn lao trong tâm trí mà đứa trẻ cơ hồ như ý thức được.
Cách tính giờ Diêm vương theo tháng và giờ sinh như sau:
mùa sinh giờ diêm vương
Xuân Sửu - Mùi
Hạ Thìn - Tuất
Thu Tý - Ngọ
Đông Mão - Dậu
e. Giờ dạ đề: Phạm giờ này, trẻ chỉ hay khóc về đêm. Cách tính cũng dựa theo tháng và giờ sinh âm lịch:
mùa sinh giờ tướng quân
Xuân Ngọ
Hạ Dậu
Thu Tý
Đông Mão
f.
Trường hợp Mệnh Không, Thân Kiếp: cho dù cả hai sao đắc địa
cũng nguy kịch đến tính mạng, nhất là cung Mệnh hoặc cung Thân
có Thiên Đồng, Thiên Lương hoặc Phá Quân tọa thủ, cho dù có cát
tinh nào tốt đi cùng cũng vậy. Càng có thêm hung tinh, hao tinh,
bại tinh, hình tinh, càng chắc yểu. Cung Phúc ở đây không quan
trọng vì đối với trẻ mới sinh, 1 tuổi thì xem cung Mệnh. Dù
Phúc có tốt cũng không đỡ nổi vì cung Phúc chỉ ứng vào 5
tuổi.
g. Trường hợp Mệnh Kiếp, Thân Không:
Gặp Thiên
Đồng hoặc Thiên Lương hoặc Phá Quân ở Mệnh hay Thân hội với
Kiếp, Không thì yểu. Ngoài ra, nếu Mệnh vô chính diệu mà có
Đào, Hồng và sát tinh khác hội tụ thì cũng chết non hoặc yểu
sinh.
h. Trường hợp xung khắc Bản Mệnh với người mẹ:
Nếu
Bản Mệnh của Mẹ khắc Bản Mệnh con sơ sinh thì càng nguy kịch
cho đứa trẻ. Nếu gặp thêm hai trường hợp trên thì chắc chắn
không thọ. Nếu bị Bản Mệnh người cha khắc, không nguy kịch
bằng.
i. Những xung kỵ khác:
– Sinh năm Dần, Ngọ, Tỵ, Dậu vào bốn giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì tối độc.
–
Sinh năm Dần, Hợi, Tỵ vào giờ Ngọ, Thân, Dậu, Hợi thì khắc
cha, cha chết trước lúc con còn nhỏ tuổi nhưng nếu qua 16 tuổi
mà chưa mồ côi cha thì sự hình khắc đó coi như tiêu tán và cha
con có thể chung sống lâu dài được.
– Sinh năm Thìn, Tỵ, Sửu, Mùi vào giờ Tý, Ngọ, Mão, Tỵ, Hợi, Thân, Dậu thì khắc mẹ trước.
Ba loại xung khắc này phải được tính chung với ba cung Mệnh, Phúc và Phu để có thêm yếu tố xét đoán.
2. Cách yểu của người lớn:
a.
Sự nghịch lý của Âm Dương: gây trục trặc căn bản và đa diện,
tạo một yếu tố bất lợi cho cuộc đời nói chung và sự yểu nói
riêng.
b. Sự đối khắc giữa Bản Mệnh và Cục: rất quan trọng, tuy không hẳn là quyết định.
c. Sự đối khắc giữa cung Mệnh và Bản Mệnh: trong trường hợp Mệnh vô chính diệu thì xấu.
d.
Sự đối khắc giữa cung Mệnh, chính tinh của Mệnh và Bản Mệnh:
nếu cung Mệnh có chính tinh, cung an Mệnh khắc chính tinh đó
rồi chính tinh đó khắc lại Bản Mệnh một lần nữa thì trực
tiếp hại cho Bản Mệnh.
e. Trường hợp bại địa và tuyệt địa của cung an Mệnh: rất bất lợi.
f. Cung Phúc xấu: làm dễ yểu hơn nữa. Cung Phúc xấu trong những trường hợp sau:
–
có chính tinh tốt, đắc địa mà bị Tuần hay Triệt hoặc cả
Tuần lẫn Triệt. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất là Âm, Dương đắc
địa ở Sửu, Mùi cần gặp Kỵ, Tuần, Triệt mới sáng lại;
–
có chính tinh (tốt hoặc xấu, nhất là xấu) mà bị sát tinh
nghịch cách xâm phạm. Số lượng sát tinh càng nhiều thì càng
bất lợi. Nếu gặp hung, hao, hình, bại tinh thì đỡ hơn.
– không có chính tinh mà thiếu Tuần, Triệt trấn đóng;
– không có chính tinh mà thiếu Tuần, Triệt, Địa Không, Thiên Không hội chiếu;
– không có chính tinh mà bị xung chiếu bởi chính tinh hãm địa;
– cung Phúc ở bại địa và tuyệt địa;
– chính tinh của Phúc bị hành của cung khắc, chính tinh này lại khắc hành của Bản Mệnh;
Cần
lưu ý rằng những bất lợi trên bổ túc thêm các bất lợi ở các
mục trước. Nếu chỉ gặp riêng những trường hợp xấu của cung
Phúc thì trước hết là yểu, hoặc là thọ mà nghèo hèn, hoặc
là bị bệnh tật và họa nặng, hết sức bất lợi cho sự sống,
hoặc có thể vì bệnh, họa, tật và nghèo đói mà tự tử.
g.
Cung Mệnh, cung Thân, cung Hạn cùng xấu: Gặp thêm ba cung này
xấu, càng dễ yểu hơn. Cái xấu của ba cung này tương tự như cái
xấu của Phúc. Hạn nào xấu nhất thì dễ yểu trong thời gian
đó. Nếu Mệnh tốt, Thân xấu gặp Hạn xấu sẽ yểu trong thời gian
của Thân và của Hạn. Nếu Mệnh xấu, Thân tốt gặp Hạn xấu có
thể đỡ khổ hơn: nếu không yểu trong thời hạn của Mệnh thì có
thể qua khỏi và sẽ hanh thông sau 30 tuổi, chỉ hiềm phải hết
sức vất vả trong vòng 30 tuổi đầu, đặc biệt là trong vòng hạn
xấu (cụ thể như nghèo, thất nghiệp, bệnh, họa, tang khó, mồ
côi, tự lập ...)
h. Cung Tật xấu: cá nhân bất hạnh về
sức khỏe, về yểu dù có phú, có quý. Trong trường hợp này, ba
cung Phúc, Mệnh, Thân phải đặc biệt tốt mới quân bình ít
nhiều cái xấu của Tật.
3. Các sao yểu:
a. Yểu cách của chính tinh:
Tử
Vi: đi chung với Tham Lang thì giảm thọ, với Phá Quân thì phải
ly hương mới sống lâu, với Tuần hoặc Triệt thì yểu, với Kình
Đà Không Kiếp thì bị hãm hại. Yểu cách càng rõ nếu Tử Vi ở
những vị trí bình hòa như Hợi, Tý, Mão, Dậu.
Liêm Trinh:
đi với Thất Sát hoặc Tham Lang, Liêm Trinh chẳng những yểu mà
họ hàng cũng có người chết sớm, bằng không cũng bị ác bệnh,
tù tội, nghèo hèn, tha phương cầu thực. Đi với Phá Quân thì
phải xa quê và vất vả mới thọ.
Thiên Đồng: đóng ở Dậu,
Thìn, Tuất có nghĩa giảm thọ và xa cách họ hàng. Đồng cung
với Cự Môn cũng yểu, hay bị quan tụng và tranh chấp nhau trong
gia đình. Đồng cung với Thái Âm ở Ngọ cũng kém thọ và cô độc.
Vũ
Khúc: giảm thọ nếu đồng cung với Thất Sát hay Phá Quân. Ngoài
ra còn cô độc, rời tổ. Họ hàng cũng nghèo và yểu.
Thái
Dương: đóng ở những cung ban đêm thì xấu: yểu và chết bi thảm,
nhất là đối với người sinh về đêm. Ngoài ra, Âm Dương cùng hãm
địa phối chiếu với nhau hoặc xung chiếu nhau cũng là yếu tố
đối khắc vận mệnh quan trọng.
Thiên Cơ: xấu nếu đồng cung với Thái Âm ở Dần, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Thiên
Phủ: ở Sửu, Mùi, Mão, Dậu thì không hay. Đồng cung với Tuần,
Triệt, Không, Kiếp, Thiên Không càng bất lợi hơn vì những sao
này giảm thọ.
Thái Âm: đóng ở những cung ban ngày với
người sinh ban ngày, Thái Âm hãm địa kém thọ, nhất là đối với
nữ. Nếu Âm đồng cung với Thiên Đồng ở Ngọ hay Thiên Cơ ở Dần
thì cũng có nghĩa tương tự.
Tham Lang: bất lợi ở Tý, Ngọ hoặc khi nào đồng cung với Tử Vi, với Liêm Trinh (ở Tỵ, Hợi).
Cự Môn: không tốt ở Thìn, Tuất vì giảm thọ, hay bị quan tụng. Đi với Thiên Đồng cũng có ý nghĩa tương tự.
Thiên Tướng: xấu ở Mão, Dậu lúc thiếu thời, chỉ khi về già mới có may mắn.
Thiên Lương: giảm thọ ở Tỵ Hợi hoặc đồng cung với Thái Dương ở Dậu.
Thất
Sát: đóng ở Thìn, Tuất hoặc đồng cung với Liêm Trinh, Vũ Khúc
thì yểu và chết vì binh đao, hình ngục. Riêng ở Tý Ngọ, tuy
kém Phúc, ly hương nhưng cũng còn có ít nhiều cơ may thọ.
Tất
cả các sao ở những vị trí kể trên mà gặp thêm sáu sát tinh
Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh thì tuổi thọ nhất định giảm.
Nếu cung Mệnh, Thân cùng xấu, yểu cách càng dễ đoán.
b. Yểu cách của phụ tinh:
Địa
Không, Địa Kiếp: hết sức tai hại lúc hãm địa, có hiệu lực
quân bình hay lấn át cả Tử, Phủ. Lúc hãm địa, hai sao này có
ý nghĩa xấu toàn diện có liên quan đến cái chết, cái nghèo,
cái họa, cái bệnh, cái tật, tóm lại nó tượng trưng cho sự đổ
gãy nặng nề, mau chóng và bất khả kháng (nếu thiếu cát và
giải tinh). Đóng ở những cung Phúc, Mệnh, Thân, tác họa toàn
diện đó sẽ kéo dài suốt đời, dưới nhiều hình thái hoặc một
trong các hình thái kể trên. Con người càng lớn tuổi, hai sao
này mạnh thêm với thời gian để gây họa, bệnh, tật hoặc đồng
loạt trên nhiều phương diện, có thể xem như là họa vô đơn chí.
Nếu đóng ở cung cường khác như Quan, Tài, Di, Phu Thê, hai sao
này tác họa trên những lãnh vực này một cách không chối cãi.
Đi với sát tinh hãm địa khác, Kiếp Không càng sát hại mạnh mẽ
hơn. Đi với Đào hay Hồng cũng yểu.
Hỏa Tinh, Linh Tinh:
là "đoản thọ sát tinh", có hiệu lực làm giảm thọ, nhất là ở
hãm địa. Nếu đắc địa thì mức thọ cao hơn. Đi chung với Kình,
Đà hãm địa thì phải chết thảm, với Kiếp Không thì càng nguy
kịch hơn.
Kình Dương, Đà La: giảm thọ nếu hãm địa và ly
hương lập nghiệp vất vả. Đặc biệt ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Kình
Dương ở Mệnh thì chết non. Đi với sát tinh kể trên, tai họa
càng khủng khiếp. Riêng ở Ngọ, Kình thủ Mệnh ví như gươm kề
cổ ngựa, rất dễ nguy kịch. Nếu gặp thêm Thất Sát, Thiên Hình,
chắc chắn phải yểu tử và chết tang thương. Được cát tinh đi
chung thì may rủi đi liền với nhau.
Kiếp Sát: chỉ khi
nào thủ Mệnh, Kiếp Sát mới nguy kịch, có ý nghĩa giống như
sao Địa Kiếp, chỉ giảm thọ, đặc biệt là vì một bệnh hiểm
nghèo, sau một cuộc giải phẫu.
Ngoài những sát tinh kể
trên, yểu cách còn do bại tinh góp phần tăng hiệu lực. Đó là
các sao: Tang Môn, Bạch Hổ - Đại Hao, Tiểu Hao - Thiên Khốc, Thiên
Hư - Bệnh, Bệnh Phù - Suy, Tử, Tuyệt - Thiên Thương, Thiên Sứ
nhập hạn.
Hóa Kỵ, Đà La, Thiên Riêu: giảm thọ nếu đồng
cung hoặc hội chiếu hoặc ở vị trí tam ám liên hoàn (Mệnh có
một sao, hai bên giáp hai sao) hoặc đi cùng với Thái Âm, Thái
Dương (sáng hay mờ). Hóa Kỵ chỉ tốt khi đồng cung với cả Âm
Dương ở hai cung Sửu và Mùi.
Cô Thần, Quả Tú: đi với sao xấu, Cô Quả chỉ giảm thọ hoặc là cô độc.
Giải
Thần nhập hạn: nếu cả đại tiểu hạn cùng gặp Giải Thần cùng
với các sao xấu khác thì chắc chắn phải chết một cách nhanh
chóng. Sao này chỉ hóa giải được nạn nhỏ. Gặp đại nạn, đại
bệnh, Giải Thần là tử thần, làm chết một cách nhanh chóng.
Sao xấu dù đắc địa hội với Giải Thần ở đại tiểu hạn cũng
không cứu gỡ được nguy cơ này.
Xương, Khúc: báo hiệu
chết non nếu ở Nô hoặc đồng cung với Liêm ở Tỵ, Hợi, Sửu,
Mùi, Mão, Dậu; với Phá ở Dần. Yểu cách lệ thuộc vào hai lý
do: tại họa nặng nề và bất kỳ xảy ra; bệnh hoạn nặng nề mà
có.
4. Cách thọ: Một cách tổng quát, cát tinh đắc
địa nói chung đều có nghĩa thọ. Những cát tinh đó đóng ở
Phúc và Thân thì càng hay.
a. Thọ cách của chính tinh:
Tử
Vi: thọ nhất là Tử Vi ở Ngọ và khi Tử Vi đồng cung với Thiên
Phủ hoặc Thiên Tướng. Tử Vi với Thất Sát thì kém hơn, nghĩa
là cũng thọ nhưng phải ở xa quê cha đất tổ.
Liêm Trinh: thọ ở Dần, Thân, hoặc khi nào đồng cung với Thiên Phủ hoặc Thiên Tướng.
Thiên Đồng: thọ ở Mão hoặc khi nào đồng cung với Thiên Lương hoặc Thái Âm (ở Tý) hay Tràng Sinh.
Thái
Dương: chỉ thọ khi tọa thủ ở các cung ban ngày như Dần, Mão,
Thìn, Tỵ, Ngọ, nhất là đối với những người sinh ban ngày và
tuổi dương. Tại Sửu, Mùi, đồng cung với Thái Âm, cần phải có
Tuần, Triệt, Hóa Kỵ đồng cung mới thọ.
Thiên Cơ: thọ ở Tỵ, Ngọ, Mùi và khi đồng cung với Thiên Lương hoặc Thái Âm (ở Thân) hoặc Cự Môn.
Thiên Phủ: thọ ở Tỵ, Hợi hoặc đồng cung với Tử Vi, Liêm Trinh, Vũ Khúc.
Thái
Âm: chỉ thọ khi đóng ở các cung ban đêm như Thân, Dậu, Tuất,
Hợi, Tý nhất là đối với người sinh ban đêm, đặc biệt vào giờ
có trăng lên và người tuổi Âm. Tại Sửu, Mùi cần có Tuần,
Triệt hay Hóa Kỵ đồng cung.
Tham Lang: thọ ở Thìn, Tuất hoặc khi đồng cung với Vũ Khúc hay Tràng Sinh, ở Dần Thân thì kém hơn.
Cự Môn: thọ ở Hợi, Tý, Ngọ hoặc đồng cung với Thái Dương ở Dần, với Thiên Cơ ở Mão Dậu.
Thiên Tướng: thọ ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi hoặc đồng cung với Tử Vi, Liêm Trinh, Vũ Khúc.
Thiên Lương: thọ ở Tý, Ngọ, Sửu, Mùi hoặc đồng cung với Thiên Đồng, Thái Dương (ở Mão) và Thiên Cơ.
Thất Sát: chỉ thọ ở Dần, Thân, nhưng với điều kiện phải ly hương; hoặc khi đồng cung với Tử Vi.
Phá Quân: thọ ở Tý, Ngọ nhưng phải xa quê.
b. Thọ cách của phụ tinh:
Những
phụ tinh có thọ cách độc lập gồm: Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa
Quyền, Hóa Khoa, Thiên Mã, Long Trì, Phượng Các, Ân Quang, Thiên
Quý, Thiên Quan, Thiên Phúc, Tràng Sinh, Đế Vượng, Thiên Giải,
Địa Giải, Giải Thần, Long Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức, Thiên
Đức, Thiên Thọ.
Những sao thọ liên đới tức là cần có sao
tốt khác đi kèm, gồm có: Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên
Việt, Tả Phù, Hữu Bật, Cô Thần, Quả Tú, Đào Hoa, Hồng Loan và
Đà La ở Dần Thân vô chính diệu, không có Tuần Triệt đồng cung.
Tất
cả sao, chính hay phụ tinh, kể trên muốn toàn nghĩa phải có
thêm điều kiện: không bị Tuần, Triệt trấn thủ, không bị sát
tinh đồng cung. Nếu phạm những cấm kỵ này, tuổi thọ bị giảm.
Đặc biệt tại cung hạn của tuổi già - hoặc là cung Thân, hoặc
là cung đại hạn, tiểu hạn - cách thọ phải vẹn toàn, đông đảo
thì mới mong sống lâu được.